Trong bài viết này, chúng tôi sẽ giới thiệu cho bạn biết về 12 giống chó nổi tiếng nhất ở châu Phi. Chúng đều là những giống chó có ngoại hình đặc biệt, tính cách dũng cảm, thậm chó có loài được nuôi để chống lại những thú dữ như sư tử.
Danh sách 12 giống chó nổi tiếng nhất ở Châu Phi
Chó Africanis
Chó Africanis là một giống chó bản địa được công nhận gần đây từ Nam Phi, giống chó này sinh sản tự nhiên và hầu như không có sự can thiệp từ con người. Tổ tiên của loài chó này vẫn chưa được biết chính xác, nhưng có khả năng chúng là hậu duệ của loài chó Greyhound.
Chó Africanis có kích thước trung bình với thân hình và mõm dài, loài chó này cũng sở hữu bộ lông ngắn. Chúng có ngoại hình pha trộn giống với chó Greyhound, chó sục và chó dingo. Màu phổ biến của loài chó này như màu màu nâu vàng, nâu, vện và đen với các mảng trắng. Hầu hết chó Africanis có màu đen ở đuôi và đây cũng là đặc điểm nổi bật nhất.
Năm 1998, Hiệp hội Africanis được thành lập để bảo tồn và phát triển tự nhiên giống chó này, họ đang cố gắng làm giảm thiểu các rối loạn di truyền. Chúng còn có một số cái tên khác như chó Châu Phi, Bantu, chó săn Hottentot, Khoikhoi, Tswana hay Zulu.
Chó Aidi
Chó Aidi còn được gọi là chó núi Atlas, chó chăn cừu Atlas, chó Berber. Là một giống chó đến từ từ dãy núi Atlas của Bắc Phi. Nơi này thuộc Maroc, Tunisia, Algeria, và Libya.
Chó Aidi chủ yếu được nuôi để bảo vệ gia súc, trông nhà khỏi mèo rừng, chó rừng, những loài thú săn mồi xâm nhập vào. Ví dụ như, chó Aidi được các bộ lạc Berber nuôi để bảo vệ vào ban đêm (đây cũng chính là nguồn gốc sinh ra cái tên chó Berber). Mặc dù sống ở vùng khí hậu khô và nóng, chó Aidi vẫn có một bộ lông dày và dài. Ngoài ra, chó Aidi rất có ích trong việc đánh hơi tìm thức ăn và dũng cảm. Ở châu Phi, mọi người thường để chó Aidi và chó Sloughi (chó săn xám Berber) đi săn cùng nhau, chó Aidi có vai trò trong việc đánh hơi và tìm kiếm con mồi, còn chó săn xám Berber có tác dụng hỗ trợ.
Hiện nay, thì chó Aidi xuất hiện nhiều ở Ma-rốc và những năm gầy đây có rất nhiều CLB tạo ra để bảo vệ giống chó này. Loài chó này cũng được tìm thấy ở Algeria, Tunisia và Libya.
Chó Armant
Chó Armant là một giống chó chăn gia súc quý hiếm từ Ai Cập, chúng được đặt tên theo thị trấn Armant (Nơi được cho xuất xứ của giống chó này hay có thể nói là nơi loài chó này được tìm thấy nhiều nhất ở đây). Chúng còn được gọi là Chó chăn cừu Ai Cập. Chúng còn được gọi với cái tên khác chó chăn cừu Ai Cập, Ermenti hoặc chó Hawara. Có một số tài liệu cho rằng chó Armant có nguồn gốc từ Briards (tổ tiên giống chó Armant đến từ châu Âu) do Napoléon mang đến vào cuối những năm 1700, sau đó có thể chúng đã được lai với chó bản địa. Một giả thuyết khác lại cho rằng, chó Armant đã phát triển qua nhiều thế kỷ.
Chó Armant có kích thước trung bình, với chiều cao tính đến vai là từ 53 đến 58 cm và nặng 23 tới 29 kg. Armant là dũng cảm và gan lì được lại tạo để bảo vệ gia súc (chúng có thể bảo vệ các vật nuôi khác đến chết). Chúng có bộ lông xù và thô có tác dụng lớn trong việc bảo vệ khỏi thời tiết xấu. Bản năng bảo vệ dai dẳng của chúng có thể khiến bạn gặp một số rắc rối, vì vậy chúng cần huấn luyện để dễ nghe lời hơn.
Chó Azawakh
Chó Azawakh có nguồn gốc ở Tây Phi và khu vực Sahel (khu vực biên giới giữa Mali và Niger được gọi là Thung lũng Azawakh). Ban đầu chúng được những người du mục Tuareg nuôi. Chó Azawakh được nuôi với mục đích bảo vệ gia súc và săn bắt một số loài động vật khác như lợn rừng hoặc thỏ.
Chó Azawakh có đôi mắt sáng, thị lực rất tốt và sức bền tốt cho phép chúng áp đảo thể lực trước con mồi. Ngoại hình cao và gầy, cùng với đôi chân dài giúp chúng có khả năng vượt qua những địa hình phức tạp (cát sa mạc).
Chó Basenji
Chó Basenji là một trong những giống có lâu đời nhất, chúng được người cổ đại khắc lên tường và lên đồ vật từ năm 3000 trước công nguyên. Chó Basenji ban đầu được nuôi như một giống chó săn nhờ vào khứu giác, thị lực và tốc độ tốt. Loài chó này có khả năng nhảy thẳng đứng (từ trên xuống) để xác định vị trí con mồi trên đồng cỏ châu Phi và để săn mồi.
Giống chó này đã tồn tại hàng ngàn năm ở châu Phi cho đến cuối những năm 1800, chúng được đưa đến các nước phương Tây. Năm 1930, chúng được nhân giống rộng rãi ở Anh. Năm 1940, chó Basenji được đưa đến và nhân giống rộng rãi.
Chó ngao Nam Phi (Boerboel)
Boerboel là một giống chó từ Nam Phi được nuôi chủ yếu để trông nhà và bảo vệ tài sản cho chủ nhà. Nguồn gốc của loài chó này vẫn chưa được biết đến chính xác. Vào những năm 1600, chó ngao Anh (English Mastiff) được những người châu Âu mang đến Nam Phi. Những năm 1900, một giống khác là chó ngao bò (Bullmastiff) được đem đến để bảo vệ các mỏ kim cương.
Ban đầu, chó ngao Nam Phi được nuôi để săn thú lớn và bảo vệ nhà cửa. Sau những lần huấn luyện, chó ngao Nam Phi có thể chống lại những kẻ săn mồi. Ngoại hình, chó ngao Nam Phi rất lớn, chúng có cái đầu rộng và bộ hàm khỏe, con đực có chiều cao tính tới vai là 68cm và nặng tới 80kg. Mặc dù, loài chó này có kích thước lớn nhưng chúng rất nhanh nhẹn. Chó ngao Nam Phi có màu lông sẫm màu thích nghi với ánh nắng mặt trời, chúng cũng có một bộ lông ngắn và dày có tác dụng chịu được nhiệt độ cao.
Chó Coton de Tulear
Chó Coton de Tulear có nguồn gốc từ Madagascar, nằm cách bờ biển về phía đông nam châu Phi khoảng 400km. Loài chó này có một bộ lông trắng và mềm như bông, đây là một trong những đặc điểm nổi bật.
Những giống chó này ban đầu được lại tạo và mang lên tàu cùng các thủy thủ, chúng thường được coi là vật nuôi giải trí, đôi khi chúng cũng được dùng để trao đổi. Khi đến Madagascar, chúng đã trở thành thú cưng của giới quý tộc. Chúng còn được mệnh danh là "Chó Hoàng gia của Madagascar" và cấm sở hữu giống chó này đối với những tầng lớp thấp hơn.
Trong nhiều thế kỷ, giống chó này hầu như chỉ được tìm thấy trên đảo, phải đến 1960, chúng được một du khách người pháp mang đến châu Âu và Mỹ.
Chó Greyhound
Chó Greyhound là một trong những giống chó cổ đại, có rất nhiều bằng chứng về giống chó này, chúng thường được mô tả Ai Cập từ 8.000 năm trước. Những miêu tả từ thời kỳ đó rất giống chó Greyhound. Chúng đã được sống chúng với những người Ai Cập cổ đại và tín ngưỡng liên quan đến vị thần Anubis.
Trong hàng ngàn năm, chó Greyhound được sử dụng để săn bắt thức ăn. Chúng rất thông minh và nhạy bén với đánh hơi tìm con mồi. Chúng là một trong số những loài chó có tốc độ nhanh nhất thế giới với 72km/h.
Chó săn Pharaoh
Chó săn Pharaoh là một giống chó cổ đại khác, với nguồn gốc có từ hơn 5.000 năm trước, bằng chứng là các mô tả ghi chép lại của Ai Cập. Chó săn Pharaoh cùng với những người Ai Cập đến các thuộc địa của người Phoenicia, nơi chúng được dùy trì đến hàng nghìn năm. Một số thông tin đã ghi chép rằng, những thương nhân Phoenicia đi biển đã mang chó săn Pharaoh đến khắp thế giới cổ đại.
Chó săn Pharaoh rất nhanh nhẹn, chúng có thể chạy trên địa hình đá trong nhiều giờ. Ngoại hình của chúng thích nghi tốt với những địa hình phức tạp ở châu Phi. Loài chó này có thị giác, thính giác và khứu giác nhạy bén.
Chó lông xoáy Nam Phi
Chó lông xoáy Nam Phi còn có cái tên khác như chó xoáy ngược Rhodesia hay chó săn sư tử châu Phi. Chúng có nguồn gốc ở Rhodesia, miền nam châu Phi (Zimbabwe ngày nay).
Những giống chó này ban đầu được lại tạo với mục đích bảo vê và chống lại sư tử, đó là lý do tại sao chúng còn có một cái tên khác "chó săn sư tử châu Phi". Chúng được lai tạo từ chó Africanis với một giống chó do người Hà Lan mang đến. Bao gồm chó Greyhounds, chó đánh hơi (Bloodhounds), chó ngao Anh, Great Dane và nhiều loại chó săn khác.
Chó Saluki
Chó Saluki còn có rất nhiều cái tên khác như Slougui, chó săn xám Ả rập, chó Hoàng gia Ai Cập, chó săn xám Ba Tư, chó săn thỏ vùng Vịnh Ba Tư hay chó săn linh dương gazelle. Chó Saluki là một giống chó có thể có từ năm 7000 trước Công nguyên, bằng chứng được tìm thấy trong các ngôi mộ cổ Ai Cập (thông qua mô tả và xác ướp).
Chó Saluki được nuôi để làm chó săn linh dương, thỏ rừng và các động vật, tốc độ chạy cao giúp chúng dễ dàng đuổi bắt được con mồi. Giống chó này được đánh giá cao về ngoại hình cũng như kỹ năng săn bắt. Chó Saluki còn từng bị cấm lại với những giống chó khác, vì vậy mà giống chó này đã tồn tại hầu như không lai tạp với các giống cho khác.
Chó Sloughi
Chó Sloughi có nguồn gốc từ Bắc Phi, là một trong hai giống chó săn được yêu thích bởi những người dân Berber. Chó Sloughi được nuôi để lợn rừng, linh dương, thỏ rừng và các loại động vật khác, trong địa hình và môi trường đặc biệt ở Bắc Phi. Chúng có một thân hình săn chắc, cùng với sức bền tốt và tốc độ cao, cho phép chúng rượt đuổi con mồi dễ dàng.
Vào cuối thế kỷ 19, chó Sloughi được đem đến châu Âu và nổi tiếng ở nước Pháp. Chúng đã gân như tuyệt chúng trong thế chiến, nhưng may mắn được cứu bởi những người yêu chó.
Hỏi đáp chuyên gia
Đặt một câu hỏi
Về bài viết này
Phương Linh
Bác sĩ thú y - Chuyên gia
Xin chào, mọi người!. Tôi là Phương Linh, một bác sĩ thú y và chuyên gia nghiên cứu về động vật. Hiện tại, tôi 29 tuổi và đam mê công việc của mình từ khi còn rất trẻ. Tôi đã tốt nghiệp chuyên ngành bác sĩ thú y và sau đó tiếp tục học tập và nghiên cứu về các loài động vật khác nhau, đặc biệt là thú cưng. Ngoài công việc của mình, tôi cũng rất đam mê viết sách về động vật và thú cưng. Tôi hy vọng qua việc viết sách, tôi có thể chia sẻ với mọi người những kiến thức và kinh nghiệm của mình để giúp các bạn hiểu rõ hơn về thế giới động vật và giúp cho chúng ta có một cuộc sống tốt đẹp hơn bên cạnh những người bạn bốn chân của chúng ta. Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về động vật hay thú cưng, hãy liên hệ với tôi. Tôi luôn sẵn sàng chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm của mình với mọi người. Cảm ơn bạn đã đọc giới thiệu về tôi!